Os quistes de coroa son quistes da mandíbula causados por dentes benignos, normalmente asociados con coroas subterráneas ou dentes supernumerarios. O quiste encerra toda ou parte da coroa. É o 2º quiste oral máis común dos quistes odontoxénicos (despois dos quistes periapicais). Aquí, imos aprender sobre este tipo de quiste da mandíbula con SignsSymptomsList; así como as súas causas, síntomas e tratamento!
contido
1. Que é un quiste de coroa?
En primeiro lugar, para entender o quiste da coroa . Necesitamos saber que é un quiste?
Un quiste é unha cavidade patolóxica recuberta de epitelio, que contén unha substancia fluída ou viscosa. A estrutura básica do quiste consta de 3 partes:
- (1) Seo central (lumen do quiste): contén restos celulares, queratina ou moco de células foliculares dexeneradas ou secretoras.
- (2) Epitelio de vaina: o epitelio varía de tipo a tipo, pode ser epitelio escamoso ou non queratinizado, pseudoestratificado columnar, columnar ou cuboidal.
- (3) Envoltura da cápsula: a parede do quiste está composta por tecido conxuntivo fibroso que contén fibroblastos e vasos sanguíneos.
Estrutura folicular
Os quistes varían en tamaño, desde microscópicos ata moi grandes, e están presentes en calquera parte do corpo; tanto óso como tecido brando. A maioría dos quistes son benignos, pero algúns poden ser precancerosos ou cancerosos. Os quistes adoitan estar ben definidos e separados do tecido próximo. Se o quiste se enche de pus ou o quiste se infecta, formarase un absceso.
Mecanismos da foliculoxénese : múltiples mecanismos de formación e crecemento de quistes:
- Proliferación epitelial
- Presión hidrostática do fluído no quiste
- Perda ósea
Os quistes dentais na mandíbula son quistes epiteliais implicados na formación dos dentes:
- Epitelio residual de Malassez: quistes radiculares, existen quistes.
- Epitelio formador de esmalte: quiste de coroa, quiste de dentición, quiste paradental.
- Epitelio residual dos folíolos dentais (Epithelia of serres): quistes de cornos dentinais, quistes perirradiculares, quistes gingivais adultos, quistes gingivais neonatais, quistes odontoxénicos.
2. Causas da formación de quistes na coroa
A causa pode deberse a un trastorno no proceso de formación e desenvolvemento dos dentes. Os quistes fórmanse como resultado da dexeneración quística entre o epitelio externo e interno do órgano do esmalte ou entre o epitelio do esmalte e a superficie do esmalte recentemente formada. O quiste rodea unha coroa subterránea despois de que o esmalte foi creado, pegándose ao dente na unión esmalte-cemento. O epitelio escamoso estratificado non queratinizado contornea o quiste.
Mecanismo de desenvolvemento do folículo
Tipos de quistes da coroa:
- Forma intrafolicular: debido a anomalías do propio epitelio do esmalte ou debido a anomalías da superficie do esmalte que provocan acumulación de líquido.
- Forma extrafolicular: Debido á presenza e crecemento doutras liñas celulares no epitelio do esmalte en dexeneración, como o epitelio intercelular de levadura, o epitelio queratinizado...
Ademais, pode haber un factor inflamatorio: hipótese que os focos inflamatorios no vértice dos dentes primarios poden estimular a formación de quistes na coroa que rodean o xerme do dente permanente subxacente.
3. Epidemioloxía dos quistes da coroa
Os quistes da coroa son o segundo quiste dental máis común despois dos quistes periapicais; e é o quiste de crecemento dental máis común. Adoitan aparecer entre os 20 e os 50 anos. Raramente visto na infancia porque é case común nos dentes 8 e 3. A taxa é 2 veces maior nos homes que nas mulleres, o maxilar inferior máis que o superior.
Máis do 75% de todos os casos están na mandíbula, sendo os dentes máis afectados:
- Terceiro molar inferior (o máis común)
- Terceiro molar superior (segundo máis común)
- Caninos superiores
- Segundo premolar mandibular
4. Manifestacións clínicas
Thường gặp nhất ở răng 8 và răng 3, trên lâm sàng thấy thiếu một răng vĩnh viễn chưa mọc.
Khi nang có kích thước nhỏ thường không có biểu hiện lâm sàng; được phát hiện tình cờ khi bệnh nhân được chụp X quang vì: răng sữa không rụng, thiếu răng vĩnh viễn, răng kế cận xoay trục, nghiêng hoặc khi tiến hành các nhu cầu điều trị khác như phục hình, chỉnh nha.
Tuy nhiên, chúng có thể lớn dần và và hình thành khối có thể sờ thấy được; gây phồng xương, biến dạng mặt mà không đau nhức. Ngoài ra, khi chúng lớn lên, có thể gây phá hủy xương; di chuyển, lung lay các răng bên cạnh. Răng sữa tương ứng có thể vẫn còn trên cung răng. Trong trường hợp nang thân răng ở xương hàm dưới có thể gây tê môi dưới do nang to chèn vào ống răng dưới. Niêm mạc trên chỗ phồng xương hoàn toàn bình thường. Trường hợp nang to gây phồng xương nhiều, niêm mạc có thể bị loét do sang chấn khi ăn nhai.
Một số trường hợp nang bội nhiễm có biểu hiện như nhiễm trùng đầu cổ tái phát hoặc như một áp xe vùng cổ sâu; gây sưng đau chỗ phồng xương.
Nang thân răng thường đơn độc. Tuy nhiên, nhiều u nang được phát hiện xảy ra cùng với các hội chứng như:
- Mucopolysaccharidoses
- Hội chứng nevus tế bào đáy
5. X-quang nang thân răng
Nang thân răng thường được xác định trên phim toàn cảnh. Chỉ cần phim toàn cảnh có thể chẩn đoán được bệnh lý. CT và MRI có thể cung cấp thêm thông tin và giúp phân biệt tình trạng này với các tổn thương nang khác của hàm dưới và hàm trên.
Khi còn nhỏ, rất khó để phân biệt một nang răng với một u hạt hay áp xe bình thường. Một định nghĩa u nang là khi khoảng thấu quang quanh thân răng lớn hơn 2,5-3,0 mm trên phim X quang.
5.1. Chụp X quang toàn cảnh (OPG)
Tổn thương biểu hiện là một hốc thấu quang tròn, viền cản quang, giới hạn rõ bao quanh một thân răng ngầm. Kích thước thay đổi, từ chỉ lớn hơn một chút so với nang bình thường đến rất lớn; có vẻ như làm rỗng phần lớn xương hàm. Chân răng thường nằm ngoài nang. Cũng có thể có hiện tượng mòn hoặc tiêu chân răng của các răng kế cận.
X-quang nang thân răng
5.2. CT
Hình ảnh CT giúp đánh giá tốt hơn răng ngầm và bản chất thành phần chứa trong nang. Đôi với tổn thương ở hàm trên có thể chiếu nhiều vào xoang cạnh mũi hoặc khoang mũi.
5.3. MRI
Vai trò chính của MRI là giúp phân biệt những tổn thương này với những tổn thương dạng nang khác của hàm, khi những biểu hiện không điển hình.
- T1: tín hiệu thấp, tương tự như nước / CSF
- T2: tín hiệu cao, tương tự như nước / CSF
- T1 C + (Gd): không có thành phần rắn, ngoại trừ khả năng có một vành ngoại vi mỏng
6. Các biến chứng của nang thân răng
Ngay cả khi u nang nhỏ và không gây ra bất kỳ triệu chứng nào, điều quan trọng là để tránh biến chứng thì phải cắt bỏ nó. Một khối u nang không được điều trị cuối cùng có thể gây ra:
- Sự nhiễm trùng
- Mất răng
- Gãy xương hàm bệnh lý: nếu đủ lớn
- Hiếm khi nang thân răng có thể phát triển thành u nguyên bào men
- Có khả năng phát triển ung thư biểu mô tế bào vảy trong trường hợp nhiễm trùng mãn tính
7. Chẩn đoán phân biệt
Khi còn nhỏ, rất khó để phân biệt một nang thân răng với bao răng lớn nhưng bình thường. Khi lớn hơn, có thể cần phân biệt với một số tổn thương trong xương hàm bao gồm:
- Nang quang chóp
- Nang xương phình động mạch
- U nguyên bào men
- U sừng do răng ( Bướu sừng do răng)
- Loạn sản sợi
- Nang Stafne
8. Điều trị nang thân răng
Tùy theo vị trí và chiều hướng của răng ngầm có thể bảo tổn hay phải nhổ răng. Đa số các trường hợp nang thân răng có chỉ định mổ lấy toàn bộ nang cùng lúc với bỏ răng ngầm (Phương pháp PARTSCH II). Nếu răng có khả năng mọc đúng vị trí trên cung hàm, chỉ cần rạch màng nang u khâu với niêm mạc nướu (Phương pháp khâu thông túi – PARTSCH I) để tạo điều kiện cho răng mọc ra dần hay cần thiết phối hợp với bác sĩ chỉnh hình để kéo răng đúng vị trí trên cung hàm. Nhiều trường hợp sau khi răng tự mọc ra đúng vị trí, bọc nang còn sót lại trong xương tạo nang tồn tại.
8.1. Phương pháp PARTSCH I
8.1.1. Rạch niêm mạc
Tạo đường rạch hình thước thợ hay đường rạch bán nguyệt ở đáy hành lang. Tách niêm mạc màng xương khỏi xương bằng cây bóc tách.
8.1.2. Mở xương, bộc lộ nang
Phần xương phủ bên ngoài đôi khi còn rất mỏng, có khi màng nang hiện ra ngay khi bóc tách niêm mạc. Nếu cửa sổ xương không đủ rộng, lỗ thông sẽ nhanh chóng lành sẹo, lấp kín và nang sẽ tái phát trở lại.
8.1.3. Mở nang
Dùng kẹp kéo căng màng nang rồi dùng kéo cắt một mảnh màng nang hình bầu dục theo hình cửa số xương vừa mở. Màng nang được ngâm trong dung dịch formol và được gửi giải phẫu bệnh để xác định chẩn đoán, nang được rửa sạch và kiểm tra xem đúng với chẩn đoán ban đầu hay không?
8.1.4. Kết thúc phẫu thuật
Dùng mũi khoan hay cây giữa xương làm nhẵn bờ xương, bơm rửa kỹ lòng nang sau đó phủ vạt niêm mạc màng xương vào ổ nang, dùng mèche đè bên ngoài để giữ vạt niêm mạc sát với nang và miệng nang luôn mở. Có thể tạo một nút nhựa tự cứng đè bên ngoài, nút nhựa này sau đó được mài bớt theo tốc độ tạo xương hay dùng nền hàm tháo lắp để che phủ lỗ hổng.
- Đối với những nang lớn (trên phạm vi 3 răng): sau khi cắt màng nang nên chừa một phần mép màng nang phía trên để sau đó khâu viền lại với mép niêm mạc, phần còn lại của màng nang khâu lộn ra ngoài với vạt niêm mạc.
- Se é necesaria a extracción do dente: a técnica é similar pero comeza coa extracción dos dentes esperados, cambiando a incisión partindo da punta alveolar do dente recén extraído, diseccionando o colgajo da mucosa perióstica, presionando o óso alveolar para retirar o óso alveolar. dentes no exterior, deixando ao descuberto toda a membrana quística. Abre o quiste e elimina parcialmente a membrana do quiste, despois tira cara abaixo o colgajo da mucosa perióstica para cubrir o óso e o quiste o máximo posible.
8.1.5. Coidados despois da cirurxía
Retirada despois de 2 semanas; Fai un tapón de plástico para cubrir a ferida, dille ao paciente que evite a acumulación de alimentos na cavidade ósea, debe lavar ben a boca. Reexamen cada 2 semanas, afiando o tapón de plástico segundo a taxa de formación ósea. Retire o tapón de plástico completamente cando o fondo da cápsula estea cheo preto da boca do burato.
Costura o peto
8.2. Método PARTSCH II
Neste método, a cápsula enteira é eliminada ao mesmo tempo que a cirurxía. Polo tanto, a velocidade de formación ósea despois da cirurxía será máis rápida, o paciente está máis cómodo; pero existe o risco de lesións nas estruturas adxacentes, o que dificulta a cirurxía.
8.2.1. Crear solapa
Debe crear unha solapa, abrir o óso ao longo da liña desde o exterior.
8.2.2. Abrir a mucosa
A incisión debe estar fóra da abertura prevista do óso. Ao realizar a disección débese dar a volta a todo o colgajo da mucosa perióstica, deixando ao descuberto a superficie ósea subxacente.Nos lugares onde o quiste se desenvolve preto da mucosa hai que ter coidado ao realizar a disección, utilizando ferramentas non puntiagudas para evitar que se rompa a capa.membrana do quiste. debaixo e separar completamente a membrana quística que se adhire á capa mucosa se está presente.
8.2.3. Os ósos abertos
Use unha broca ou unhas pinzas óseas para expandir o óso circundante para expor a membrana do quiste, evitando danos nos dentes adxacentes.
8.2.4. Quistes de dragado
Suxeitando un extremo do quiste cunhas pinzas sen puntas, diseccione a membrana do quiste restante cun raspador e un rascador de diferentes tamaños, evitando o desgarro da membrana do quiste. Raspe ben todas as capas restantes da cápsula, examine coidadosamente as paredes óseas para asegurarse de que non quede tecido cístico residual, se non, provocará a reaparición.
8.2.5. Bomba para limpar a ferida, alisar a parede ósea
Teña en conta que durante o curetaxe do quiste, se existe o risco de invasión dos dentes adxacentes que non foron tratados con canles radiculares, debe planificarse un plan para o tratamento do canal radicular destes dentes para evitar o risco de infección na cavidade do quiste por lesións necróticas. morte da medula.
8.2.6. Coser
Para orificios pequenos, pecha a incisión suturando a solapa. Non se deben pechar os buratos óseos grandes despois da cirurxía porque os grandes coágulos sanguíneos non poden encher o quiste, o que pode causar unha infección facilmente, polo que insira a fascia. Substitúe a pasta de sésamo continuamente durante varios días con tamaño decrecente ata que o tecido de granulación prolifere e cubra a parede ósea.
8.3. Método de combinación
Ao aplicar o método combinado, a liña de incisión cámbiase.Debido á aplicación de sutura na fase inicial, o quiste ten unha parte epitelial que é continua co epitelio da mucosa oral. Na fase da cirurxía radical, este epitelio debe rasparse xunto coa membrana do quiste restante facendo unha incisión oval ao redor da xanela quística existente.
Despois do legrado do quiste, débese tentar mover a cuba para cubrir a xanela ósea ou inserir unha fascia se o colgajo non cobre completamente a xanela ósea ata que se forme un novo tecido de granulación.
Un quiste de coroa é un quiste relativamente común pero tratable que se pode eliminar por completo. A maioría dos quistes causan pouco dano, excepto nos casos de infección. As visitas periódicas ao odontólogo axudarán a detectar esta afección de xeito precoz e a obter o tratamento axeitado; Evita complicacións perigosas como fracturas, infeccións, neoplasias, etc.